Thứ Tư, 6 tháng 1, 2010

Chuyển dạ sanh non (Nguồn: The Fetal Medicine Foundation)

Gánh nặng của sanh non

Khoảng 130 triêu trẻ được sanh ra mỗi năm trên thế giới và khoảng 4 triệu trong số này sẽ chết trong 4 tuần đầu sau sanh, chết ở giai đoạn sơ sinh..

Các nguyên nhân chính của tử vong sơ sinh trên toàn cầu là sanh non, nhiễm trùng nặng và ngạt.

Ở các nước đã phát triển, nguyên nhân sanh non chiếm khoảng một nữa của tử vong sơ sinh.

image

Tỷ lệ sanh non

Tỷ lệ sanh non không giảm trong suốt 50 năm qua và trong hầu hết các nước đã phát triển, tỷ lệ này tiếp tục tăng dù chúng ta đã hiểu rõ hơn các yếu tố nguy cơ và cơ chế liên quan đến chuyển dạ sanh non..

Có hai nguyên nhân chính của sự thất bại trong việc giảm tỷ lệ sanh non:

  • Chưa có phương pháp sàng lọc thật sự hiệu quả để nhận diện các phụ nữ có nguy cơ cao. .
  • Thiếu một biện pháp can thiệp hiệu quả để ngăn ngừa biến chứng này.image
  • Các loại sanh non

Trong một phần ba các trường hợp sanh non, sanh được chỉ định vì các lý do bệnh lý như tiền sản giật, thai chậm tăng trưởng trong tử cung và trong hai phần ba là tự nhiên do sự khởi phát chuyển da sanh non tự nhiên hoặc sanh non do vỡ ối non..

Sanh trước 37 tuần được định nghĩa là sanh non và tuỳ theo tuổi thai sẽ được chia thành các nhóm :

  • Cực non (<28 tuần), khoảng 0.25% các thai kỳ.
  • Non (28-30 tuần), khoảng 0.25% các thai kỳ.
  • Trung bình (31-33 tuần), khoảng 0.6% các thai kỳ.
  • Nhẹ (34-36 tuần), khoảng 3.0% các thai kỳ.

Nguy cơ của thai chết và tàn tật tăng trong nhóm cực non, non và trung bình. Tỷ lệ sanh non chung tự nhiên trước 34 tuần khoảng 1%.image

Tầm soát sanh non

Trên cơ bản, có hai nhóm thai phụ trong nhóm nguyên nhân sanh non tự nhiên trước 34 tuần:

  • 15% ở nhóm có tiền căn sẩy thai muộn hoặc sanh non tự nhiên. Nhóm này chiếm 3% dân số. Trong nhóm này, nguy cơ tái phát có liên quan ngược với tuôỉ thai sanh non trước đây.
  • 85% các trường hợp sanh non còn lại là thuộc 97% các phụ nữ có thai lần đầu hoặc các lần sanh trước đều đủ tháng.
  • Do vậy, nếu có bất kỳ chiến lược nào nhằm giảm tần suất sanh non tập trung vào nhóm có tiền căn sanh non thì sẽ có rất ít hiệu quả trên cải thiện tỷ lệ sanh non. image

  • Trên cơ bản, có hai chiến lược để phát hiện nhóm phụ nữ có nguy cơ cao mà các lần sanh trước đủ tháng hoặc đây là lần đầu tiên mang thai:
  • Đo fibronectin thai ở CTC âm đạo lúc thai 22-24 tuần. Fibronectin thai là một glycoprotein ngoại bào được sản xuất bởi tế bào ối và tế bào nuôi. Nó nằm ở giữa lớp màng ối và màng đệm, có chức năng như là một chất keo gắn kết thai và tử cung. Fibronectin thai có thể được phát hiện trong chất tiết CTC âm đạo ở tất cả thai phụ với nồng độ cao trước 22 tuần nhưng thấp hơn ở tuổi thai 22-34 ( <50 ng/mL) Đo fibronectin thai lúc 22-24 tuần thì rất có ích trong việc tiên đoán các thai kỳ có nguy cơ cao sanh non tự nhiên. Lúc thai 22-24 tuần, xét nghiệm dương tính trong khoảng 4% các thai phụ và bao gồm 25% các trường hợp sanh non tự nhiên trước 34 tuần.
  • Đo chiều dài CTC lúc thai 22-24 tuần với trị số trung bình là 36mm. Nguy cơ sanh non tự nhiên liên quan ngược với chiều dài CTC và tăng theo hàm mũ khi chiều dài <15mm. Chiều dài CTC < 15mm trong khoảng 1% các thai phụ và khoảng 30% các trường hợp sanh non tự nhiên trước 34 tuần. Trong song thai và tam thai, cũng có mối liên quan ngược giữa chiều dài CTC và nguy cơ sanh non tự nhiên. Tuy nhiên, trong các trường hợp đa thai này, ngưỡng cắt cho việc gia tăng theo hàm mũ là 25mm. image
  • Sàng lọc bằng đo chiều dài và tiền căn sản khoa

  • Phương pháp phối hợp đo chiều dài CTC và tiền căn sản khoa sẽ giúp tiên đoán chuyển dạ sanh non tự nhiên tốt hơn là dưạ trên một yếu tố riêng lẻ và độ nhạy của sự sàng lọc cải thiện mức độ sanh non đang gia tăng.
  • Với tỷ lệ sàng lọc dương tính 5%, sẽ phát hiện khoảng 70% cho các trường hợp sanh cực non, 45% sanh non, 40% sanh non trung bình và 15% sanh non nhẹ.. Nếu tỷ lệ sàng lọc dương tính là 10% thì tỷ lệ phát hiện là 80%, 60%, 55% và 30%.
  • Tính toán sanh non
  • Khi bạn nhận được bằng cấp FMF chứng nhận có khả năng đo chiều dài CTC, bạn sẽ được cung cấp phép tính để tính nguy cơ sanh non tự nhiên. image

Ngăn ngừa sanh non

  • Các nghiên cứu đánh thang giá trị của các phương pháp đo lường trên cơ bản tập trung vào hai nhóm sau:
  • Các thai phụ có tiền căn sanh non.
  • Các thai phụ không có tiền căn sanh non nhưng qua các xét nghiệm sàng lọc trong thai kỳ phát hiện có nguy cơ sanh non.
  • Phòng ngừa ở các phụ nữ có tiền căn sanh non

  • Không có hiệu quả làm giảm nguy cơ tái phát đã được chứng minh trong các phương pháp phòng ngưà sau:
    • Nằm nghĩ tại viện hay tại nhà được khuyến cáo nhằm ngừa sanh non nhưng không có bằng chứng khoa học nào để chứng minh điều này. Quả thật, các nghiên cứu ngẫu nhiên ở song thai cho thất nằm nghỉ làm tăng nguy cơ sanh non. Ngoài ra, nằm nghĩ còn có những tác dụng ngược cho thai phụ như tăng nguy cơ tắc mạch, teo cơ và trầm cảm..
    • Betamimetics dự phòng
    • Can thiệp vào lối sống, như giảm lao động chân tay, tăng số lần thăm khám các khoa tiền sanh, hỗ trợ tinh thần, chế độ ăn đầy đủ sắt, Folate, Ca, kẽm, Mg vitamin và dầu cá

Phòng ngừa ở các phụ nữ có tiền căn sanh non

Lợi ích của giảm nguy cơ tái phát đã được chứng minh trong hai chiến lược sau đây

  • Khâu CTC làm giảm nguy cơ sanh non trước 34 tuần khoảng 25%. Có hai hướng xử trí các sản phụ có tiền căn sanh non. Hướng thứ nhất, khâu CTC có chọn lọc cho tất cả các sản phụ sau khi siêu âm thai lúc 11-13 tuần không thấy có dị tật lớn. Hướng thứ hai, đo chiều dài CTC môĩ hai tuần và chỉ khâu nếu chiều dài CTC< 25mm. Tỷ lệ sanh non không khác biệt giữa hai hướng xử trí nhưng cách hai tốt hơn vì giúp giảm gần 50% các trường hợp cần khâu CTC.
  • Progesterone cho trong giai đoạn 20 đến 34 tuần sẽ giảm nguy cơ sanh non trước 34 tuần khoảng 25%. Progesterone có thể được đặt trong âm đạo dạng thiên nhiên (200 mg) mỗi tối hoặc 17 alpha-hydroxyprogesterone carporate tổng hợp (250 mg) chích trong cơ. Progesterone thiên nhiên thì tốt hơn vì không có các tác dụng phụ không mong muốn như buồn ngủ, mệt moỉ và nhức đầu. Tuy nhiên, có một số lo ngại rằng tiêm 17-OHP-C có thể làm tăng nguy cơ thai chết.

Các phụ nữ có tiền căn sanh non

Không thấy có hiệu quả bằng các biện pháp như nằm nghĩ, giảm co dự phòng .hoặc các can thiệp vào lối sống.

  • Progesterone đặt âm đạo mỗi tối từ thai 20-34 tuần giảm tỷ lệ sanh non 25%.
  • Đo chiều dài CTC môĩ hai tuần ở thai 14-24 tuần và khâu CTC nếu chiều dài CTC< 25mm và sẽ giảm tỷ lệ sanh non 25%.

Phòng ngừa ở các phụ nữ có viêm nhiễm phụ khoa

Ở các thai phụ có test fibronectin dương tính nguy cơ sanh non tăng nếu không có điều trị kháng sinh dự phòng..

  • Nhiễm trùng âm đạo là tình trạng mất cân bằng của sàng âm đạo do sự giảm các vi khuẩn lactobacillary bình thường và do sự phát triển quá mức của các vi khuẩn kỵ khí hỗn hợp như Gardnerella, Mycoplasma hominis và các chủng Mobiluncus . Nhiễm trùng âm đạo hiện diện ở 20% các phụ nữ trong giai đoạn thai nghén và hầu hết là không có triệu chứng lâm sàng.Nguy cơ sanh non tăng gấp hai lần ở các phụ nữ có nhiễm trùng âm đạo và tăng gấp 5 lần nếu nhiễm trùng xuất hiện trước 16 tuần. Điều trị kháng sinh có thể diệt tận gốc nhiễm trùng nhưng không làm giảm nguy cơ sanh non tự nhiên. Tuy nhiên cần có nghiên cứu thêm liệu việc điều trị trước 16 tuần có giảm nguy cơ sanh non không.
  • Ở các phụ nữ nhiễm trùng niệu không có triệu chứng nguy cơ sanh non và viêm đài bể thận bị gia tăng. Điều trị kháng sinh có thể giảm nguy cơ viêm đài bể thận nhưng không giảm nguy cơ sanh non tự nhiên.

Phụ nữ không có tiền căn sanh non nhưng xét nghiệm sàng lọc dương tính

  • Xét nghiệm fibronectin dương tính. Kháng sinh không làm giảm mà còn làm tăng nguy cơ sanh non.
  • Nhiễm trùng âm đạo: kháng sinh không làm giảm nguy cơ sanh non nhưng việc điều trị kháng sinh có thể hữu hiệu nếu được dùng trước 16 tuần.
  • CTC ngắn khi thai 20-24 tuần, khâu CTC có thể giảm nguy cơ sanh non 15%. Progesterone đặt âm đạo mỗi tối từ 20 đến 34 tuần giảm tỷ lệ sanh non 45%

Phòng ngừa ở các thai phụ có chiều dài CTC ngắn

Không có nhận xét nào: